Xạ can là một loại cây thuộc họ của hoa Lay ơn, đây là một vị thuốc Đông y được áp dụng trong nhiều đơn thuốc chữa bệnh. Sau đây các bạn đọc hãy cùng với các lương y tại Trường Cao đẳng Y dược TP HCM tìm hiểu sơ lược về công dụng cũng như thông tin về loại thảo dược đặc biệt này nhé!
- Tuyệt chiêu bỏ túi: Quả măng cụt phòng ngừa ung thư gan hiệu quả
- Ngạc nhiên với công dụng chữa bệnh của cây Mặt quỷ
- Bật mí những bài thuốc chữa bệnh hay từ cây Huyết dụ
Xạ can được vận dụng vào nhiều bài thuốc chữa bệnh
Mô tả sơ lược về cây Xạ can
Xạ cạn có tên khoa học là Belamcanda chinensis Lem, còn được gọi với một số tên khác như Ô bồ, Dạ can hay Ô phiến…Xa can là loại cây bụi thường mọc hoang hay được trồng làm cảnh ở nhiều nơi. Cây xạ can là một cây thuốc quý. Dạng cây thảo, sống dai, thân rễ mọc bò. Thân bé, có lá mọc thẳng đứng, cao tới 1 m. Lá hình mác dài, hơi có bẹ, mọc xen kẽ thành 2 hàng, dài 20cm -40 cm, rộng 15mm -20 mm. Gân lá song song. Lá hình phiến dài, lá ở phía dưới úp lên gốc lá ở phía trên. Cụm hoa có cuống, cánh hoa màu vàng cam điểm đốm tím, 3 nhị, bầu hạ. Quả nang hình trứng, có 3 van, dài 23mm -25 mm. Hạt xanh đen hình cầu.
Tác dụng dược lý của cây thuốc Xạ can
Các dược sĩ, giảng viên Cao đẳng Dược TPHCM tại Trường Cao đẳng Y dược TP HCM cho biết xạ can có một số thành phần hóa học như:
- Tác dụng kháng vi sinh: Nước sắc Xạ can có tác dụng ức chế Bồ đào cầu khuẩn,, Liên cầu khuẩn, khuẩn bạch hầu, khuẩn thương hàn quách Võ Phi, Trung Hoa Y Học Tạp Chí 1952, 38 (4): 315).
- Tác dụng khứ đờm: cho chuột nhắt uống nước sắc Xạ can, thấy hô hấp tăng, tống đờm ra mạnh hơn.
- Tác dụng giải nhiệt: Cho chuột đang sốt cao uống nước sắc Xạ can, thấy có tác dụng giải nhiệt (Ngô Trạch Phương, Trung Dược Dược Lý Dữ Lâm Sàng 1990, 6 (6): 28).
- Tác dụng kháng viêm
- Tác dụng giải nhiệt: Cho chuột đang sốt cao uống nước sắc Xạ can, thấy có tác dụng giải nhiệt.
- Tác dụng đối với nội tiết; Dích chiết và cồn chiết xuất Xạ Can cho uống hoặc chích đều có kết quả làm tăng tiết nước miếng. Thuốc chích có tác dụng nhanh và dài hơn.
- Tác dụng chống nấm và virus: Chích liều cao dung dịch Xạ can, in vitro thấy có tác dụng ức chế nhiều loại nấm da. Thuốc cũng có tác dụng chống virus hô hấp (Trung Dược Học).
Xạ can và một số thành phần hóa học
Trong cây Xạ can người ta có chứa một số thành phần hóa học như Irigenin (Hồ Hiểu Lan, Trung Dược Thông Báo 1982, 7 (1): 29). + Tectorigenin, Tectoridin (Ngô Ác Tây, Dược Học Học Báo 1992, 27 (1): 64). + Belamcanidin, Methylirisolidone, Iristectoriginin A (Yamaki M và cộng sự, Planta Med 1990, 56 (3): 335). + Irisflorentin (Từ Ác Cương, Dược Học Học Báo 1983, 18 (12): 969). + Iridin (Kukani N và cộng sự, C A 1951, 45: 820b). + Noririsflorentin (Woo W S và cộng sự, Phytochemistry 1993, 33 (4): 939).
Một số bài thuốc chữa bệnh áp dụng với cây Xạ can
Xạ can là loại cây mọc hoang hay được trồng để làm cảnh
- Chữa quai bị: Rễ Xạ can tươi 10g-15g, sắc uống, ngày hai lần (Phúc Kiến Dân GianThảo Dược).
- Trị quai bị: Xạ can, Tiểu huyết đằng [lá], nghiền nát, đắp chỗ sưng (Hồ Nam Dược Vật Chí).
- Chữa khớp gối viêm, té ngã tổn thương: Xạ can 90 g, ngâm với 500ml rượu một tuần, Mỗi lần uống 20 ml, ngày 2 lần (An Huy Trung Thảo Dược).
- Chữa táo bón, tiểu bí: Rễ Tử hoa biển trúc (Xạ can), giã vắt lấy nước cốt 1 chén, uống thì thông ngay (Phổ Tế phương).
- Trị bạch hầu: Xạ can 3g, Sơn đậu căn 3g, Kim ngân hoa 15g, Cam thảo 6g, sắc uống (Thanh Đảo Trung Thảo Dược Thủ Sách).
- Chữa vú sưng mới phát: Xạ can, lựa loại gốc giống hình con Tằm nằm chết cứng, cùng với rễ cỏ Huyên. Tán nhuyễn thành bột, trộn với mật, đắp vào (Vĩnh Loại Kiềm phương).
- Trị sốt rét lâu ngày, có báng: Xạ can, Miết giáp (chế), sắc uống hoặc làm thành viên uống (Tụ Trân phương).
- Chữa họng sưng đau, ăn uống khó: Xạ can (tươi) 160 g, Mỡ heo 160g. nấu cho gần khô, bỏ bã. Mỗi lần ngậm 1 viên bằng trái táo, dần dần là khỏi (Tụ Trân phương). Xạ can cho vào với giấm nghiền nát, vắt lấy nước cốt ngậm. Hễ nước miếng ra nhiều thì nhổ đi (Y Phương Đại Thành phương).
- Chữa họng sưng đau, ăn uống không thông: Tử hồ điệp căn (tức Xạ can) 4 g, Hoàng cầm, Cam thảo (sống), Cát cánh đều 2g. tán nhuyễn thành bột, hòa với nước mát uống hết là khỏi (Đoạt Mệnh Tán – Giản Tiện phương).
- Trị hầu tý (họng sưng đau): Xạ can, thái ra, mỗi lần dùng 20 g, sắc với 1,5 chén nước còn 8 phân, bỏ bã, cho ít mật vào, uống (Xạ Can Thang – Thánh Tế Tổng Lục).
- Chữa âm sán sưng đau, đau như kim đâm vào hông sườn: Xạ can sống, giã nát, vắt lấy nước cho uống, hễ đi tiểu được là khỏi. Hoặc dùng Xạ can tán bột làm viên cũng tốt (Trửu Hậu phương).
- Trị ghẻ lở do trúng phải xạ độc: Xạ can, Thăng ma, đều 80g,sắc với 3 chén nước, uống nóng, bã đắp vết thương (Tập Nghiệm phương).
- Chữa ho mà khí nghịch lên, trong họng có nước khò khè như gà kêu: Xạ can 13 củ, Ma hoàng 120 g, Sinh khương 120g, Tế tân, Tử uyển, Khoản đông hoa đều 90 g, Ngũ vị tử ½ thăng, Đại táo 7 trái, Bán hạ(chế). Sắc Ma hoàng với 1 đấu 2 thăng nước cho sôi, vớt bỏ bọt, cho các vị kia vào nấu còn 3 thăng, chia làm 3 lần, uống ấm (Xạ Can Ma Hoàng Thang – Kim Quỹ Yếu Lược).
- Chữa thủy cổ, bụng to như cái trống, trong bụng kêu óc ách, da xám đen: Quỉ phiến căn (Xạ can), gĩa vắt lấy nước cốt, uống 1 chén thì sẽ tiêu tiểu xuống thông ngay (Trửu Hậu phương).
Nguồn: nhathuocgpp.edu.vn